TÓM TẮT
MÙA
LÁ RỤNG TRONG VƯỜN
Tiểu thuyết Mùa lá rụng
trong vườn - được viết ra nhằm chia sẻ với người đọc giữa đời về niềm lo
lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trước những biến động, đổi thay của
thời buổi kinh tế thị trường - được Ma Văn Kháng hoàn thành vào năm 1985. Tác
phẩm được xét tặng giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986. Tác phẩm gồm 20
chương. Đoạn trích được chọn đưa vào Sách giáo khoa Ngữ văn 12 là một đoạn dẫn
từ phần 4, chương II của tác phẩm.
Bằng
một giọng kể ấm áp và cảm động, khi thì qua trật tự tuyến tính dẫn dắt, khi thì
qua ngôn ngữ đối thoại, khi thì để cho sự việc phơi trải giữa thời gian hiện
tại, khi thì để sự tình xa xôi sau một bức màn hồi ức, tác giả đã đưa người đọc
trở về với một buổi chiều cuối năm đầy bình yên và trầm hương. Trong buổi chiều
cuối năm đầy thiêng liêng mang tính truyền thống đó, người đọc nhận ra những
nét đẹp rất phương đông, rất Việt Nam của ngày Tết cổ truyền: sự đoàn tụ, lễ
cúng gia tiên và bữa cơm tất niên, những lời ước nguyện...
Có thể tiếp cận với không gian
và thời gian đầy hương Tết của đoạn trích được dẫn ở ba toạ độ nghệ thuật sau:
Thứ nhất, chị Hoài và sự trở về trong buổi
chiều ba mươi Tết.
Chị Hoài - người vợ của một
liệt sĩ. Chấp nhận sự vô thường, chị tái giá, nhưng vẫn giữ sự hằng thường: sự
trong sáng thuỷ chung với gia đình nhà chồng (gia đình ông Bằng). Hết mùa lá
rụng năm ấy, chị như chiếc lá tìm về cội nguồn, trở về thăm lại gia đình cũ
đúng thời khắc buổi chiều tất niên. Chị Hoài (mà cái tên như ngầm gợi lên một
cái gì ổn định, hằng thường, thuỷ chung) hiện lên trong tác phẩm và đoạn trích
trong một lát cắt bất ngờ của đời sống, cũng là trong chặng cuối cuộc hành
trình của một năm tàn tháng tận. Chị đem đến cho khu vườn của nhà chồng một
tiết tấu bình yên – như bù lại cho những gì mà thế giới yên tĩnh ấy đã, đang và
sẽ vừa bị tước đoạt vừa được bồi đắp mới để thích nghi trước một nhịp điệu gấp
gáp của đời sống thị trường. Lời nhắn gọn gắn mà mênh mang biết bao, ít chữ mà
nhiều nghĩa biết bao ở chương XX – chương cuối cùng của truyện – của chị Hoài
sau một mùa lá rụng nữa như hoàn chỉnh thêm diện mạo tâm hồn của một người vợ
liệt sĩ đã thanh thản chọn cho mình cách sống vì mọi người (trước hết là mọi
người trong gia đình dù đó chỉ là một gia đình đã xưa cũ với chị mà chị hoàn
toàn có quyền không phải chia sẻ trách nhiệm nữa): “Bao giờ cậu Cần cưới vợ, cô
Phượng ở cữ, cô Lí về, nhớ điện cho tôi lên”.
Đúng như suy nghĩ của ba nhân
vật Đông, Lí và Luận: “Quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ. Kỉ
niệm của chị ở đây đẹp nhưng buồn. Chị có quyền quên mà không ai được trách
cứ.” Nhưng đoạn trích đã cho người đọc đến với một nhân vật chị Hoài của hiện
tại chứ không phải là của quá khứ. Vẫn còn đó trong mùa tết năm
này của tác phẩm sự chu đáo, lo toan, nghĩa tình vẹn toàn của một người
dâu trưởng. Điều đó làm tất cả mọi người trong gia đình ông Bằng đều cảm động.
Qua cách miêu tả ấy của Ma Văn Kháng, người đọc cũng bất giác bồi hồi theo tâm
hồn nhân hậu, cách sống vị tha, trong sáng nghĩa tình, thuỷ chung của người đàn
bà đã một thời là dâu trưởng. Ma Văn Kháng đã ưu ái dành cho nhân vật đặc biệt
này cả hai cách giới thiệu, miêu tả vừa trực tiếp (qua ngoại hình và diện mạo
bình dị mà có nét tươi tắn: “một phụ nữ nông thôn trạc năm mươi, người thon gọn
trong cái áo bông chần hạt lựu. Chiếc khăn len thắt nâu ôm một khuôn mặt rộng
có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi.”; qua hai con mắt “đậm nỗi bồi
hồi” cảnh cũ người xưa; qua ngôn ngữ thô mộc dân dã mà không phải là không tinh
tế: “Cô Phượng đấy như?”) vừa gián tiếp (qua hồi ức của mọi người: “Chị Hoài,
vợ anh cả Tường liệt sĩ. Chị Hoài, dâu trưởng, nết na, thuỳ mị.”; qua cảm nhận
của Phượng trong hiện tại: “Người phụ nữ tưởng đã cắt hết mối dây liên hệ với
gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống cuả
gia đình này”). Chín năm chưa gặp lại người cha chồng kính yêu. Phút gặp lại,
chị Hoài “gần như không chủ động được mình, chị lao về phía ông Bằng, quên cả
đôi dép...”. Ma Văn Kháng tinh tế và sắc sảo để chị “kịp hãm lại khi còn cách
ông già hai hàng gạch hoa” - hai hàng gạch hoa của lễ giáo và sự xa cách của
một lần tái giá. Chị thốt lên tiếng “Ông” nghe như một tiếng nấc. Nhưng đến lễ
cúng gia tiên, chị Hoài đã thật sự trở về với niềm tin trong trẻo cũ. Người đàn
bà đó đã giản dị một cách hồn nhiên để tin rằng chị vẫn là một phần không thể
tách rời của cái gia đình xưa cũ. Vì vậy, ngay khi ông Bằng vừa khấn vái và
buông tay chắp xong, chị liền “thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực.”
để cất lên lời khấn vái tổ tiên.
Có phải chính từ hình tượng
này mà Ma Văn Kháng đã muốn nói lên một điều không được nói ra nói tác phẩm:
thì ra, con người ta có quyền vừa hội nhập với cái mới mà vẫn vừa giữ gìn được
những nét tinh tuý hằng thường của cái xưa cũ.
Thứ hai, ông Bằng và cuộc gặp lại người con
dâu.
Qua cách khắc hoạ của Ma Văn
Kháng, ông Bằng vừa là hiện thân vừa là biểu tượng cho giá trị mang tính chuẩn
mực của đời sống gia đình. Ông tìm bình yên trong tiết tấu cổ điển của bản “Vườn
khuya”. Nhưng giai điệu thong thả du dương êm đềm ấy cũng không giúp ông chống
đỡ nổi sự biến động phức tạp đầy tăng tốc của đời sống thị trường. Ông phải
chứng kiến dần dần sự đổ vỡ của gia đình: con trai (Cừ bỏ xí nghiệp
và có tin là đã vượt biên), con dâu (Lí - vợ của Đông) đang có biểu hiện chê
chồng lạc hậu để đua theo lối sống xa hoa phù phiếm. Khu vườn nhỏ và yên tĩnh
của gia đình ông Bằng vừa phải đối mặt với quy luật rụng lá của thiên nhiên,
vừa phải đối mặt với quy luật biến động của đời sống xã hội. Ông Bằng chưa chịu
nhận ra một điều - mà điều này cho đến cuối tác phẩm, sẽ xuất hiện trong một
chiêm nghiệm của con dâu ông là Phượng: “Ai có thể ngờ được căn nhà yên tĩnh, ở
đầu cái phố dài yên tĩnh, lại chỉ có được sự yên tĩnh bề ngoài. Gia đình, cái
giọt nước của biển cả, có ai ngờ lại là một vùng chứa nhiều sóng gió đến thế.”
Cuộc gặp mặt giữa ông Bằng và
người dâu trưởng là chị Hoài là một cuộc gặp gỡ vừa vui mừng vừa xót xa. Trong
một chừng mực nào đó, cuộc gặp lại này xoa dịu niềm cô đơn và tiếp thêm niềm
tin cho ông Bằng trong cảnh ngộ gia đình hiện tại. Ngòi bút miêu tả tâm lí tinh
tế của Ma Văn Kháng tỉ mẫn ghi lại cận cảnh phút giây rớm nước mắt đó: ông Bằng
sững lại khi nhìn thấy chị Hoài, trên gương mặt còn vướng vất ưu tư của ông “thoáng
một chút ngơ ngẩn”, rồi mắt ông “chớp liên hồi”, môi “lật bật không thành
tiếng”. Tác giả nói thay người đọc và thay cho cả nhân vật người cha chồng giàu
cảm xúc này là “có cảm giác ông sắp khóc oà”. Khi chị Hoài lao về phía cha,
thốt lên tiếng “Ông” nghe như tiếng nấc, giọng ông Bằng nghẹn ngào đẫm nước
mắt: “Hoài đấy ư, con?”. Đúng là một cuộc gặp gỡ nhiều tâm trạng, nhiều nỗi
niềm mà một nhân vật trong truyện đã nhận ra : “Cảnh gặp gỡ vui mừng nhiễm một
nỗi tiếc thương, đau buồn, ê nhức cả tim gan.”.
Mùa lá rụng. Cây cối trong
thiên nhiên lớn của đất trời và thiên nhiên hẹp là khu vườn của gia đình ông
Bằng cũng đều chấp nhận quy luật vừa khắc nghiệt vừa thanh thản của tiết mùa
cho một lần thay lá. Để lên non. Cũng như cây cối trong khu vườn nhà ông Bằng,
những con người trong Mùa lá rụng trong vườn phải đối mặt cho một lần
“lên đời” (cũng là một kiểu “thay lá”) để bước vào cuộc sống đầy năng động, đầy
biến động của cơ chế thị trường. Trong cuộc sống tất bật để đi lên đó, một mặt
những con người trong đoạn trích và tác phẩm phải phấn đấu để trang bị thêm
những giá trị mới để thích nghi với cuộc sống mới; mặt khác, phải ra sức níu
giữ, neo giữ những giá trị hằng thường đã trở thành chuẩn mực bất biến của đời
sống. Giá trị cần được giữ gìn trong mùa lá rụng của tác phẩm và cũng chính
trong đoạn trích là giá trị gia đình.
Thứ ba, mọi người trong gia đình ông Bằng và lễ
cúng tất niên.
Tất cả đều mong đợi chị Hoài
lên thăm, chị Hoài trở về. Và “cầu được, ước thấy”. Niềm vui mừng của mọi người
trong gia đình ông Bằng khởi phát từ tiếng reo to mừng rỡ của Phượng, tiếp theo
là cảnh Đông, Lí, Luận hấp tấp vội vã từ phòng khách “ùa ra vệt đường lát xi
măng đi qua vườn cây ra cổng...”. Cảnh Lí ôm chầm lấy chị Hoài. Rồi một loạt
lời hỏi han, trao đổi rộn rã. Rồi cảnh người cha chồng và con dâu trưởng gặp
lại nhau trong nghẹn ngào cảm xúc.
Lễ cũng tất niên tràn ngập
không khí trang nghiêm nhưng ấm cúng, lời khấn thành kính mà chân thành. Đứng
trước bàn thờ tổ tiên, ông Bằng “như quên hết xung quanh và bản thể”. Ông thành
tâm theo khói hương ngày Tết trôi về quá khứ hằng thường, cất lên lời vọng
tưởng đầy tri ân với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, với người vợ đã qua đời, với
người con trai cả đã xanh mồ. Để rồi từ quá khứ thiêng, ông trở về với hiện tại
bề bộn. Hơn ai hết trong gia đình này, ông ý thức sâu sắc sự kết nối giữa
truyền thống và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu.
Mâm cỗ tất niên thịnh soạn
được cả nhà - nhất là Lí - tươm tất chuẩn bị. Nỗi buồn năm cũ như qua đi, chỉ
còn đó đêm trừ tịch đầy sự vui vẻ, hân hoan, ấm cúng của một gia đình tưởng
chừng không bao giờ có thể chia cắt.
Có lẽ người đọc tuy không nói
ra nhưng đều cảm động hướng đến và sẻ chia suy nghĩ lặng thầm của ông Bằng
trong đêm cuối năm lặng gió ấy ở cuối chương II: “Gia đình và sự sum họp đêm
giao thừa, có gì đầm ấm, thiết tha hơn. Kỳ diệu thay thời khắc này. ”
Tết,
trong nỗi thiêng liêng thẳm sâu giản đơn mà huyền diệu đêm trừ tịch, sau những
bổi hổi đoàn tụ, cuối những hoài niệm xao xác và khởi đầu thinh lặng những ước
mơ, nghe vườn khuya rùng mình búng lá, nghe trước đường theo gió có ai đó
lất phất xuyên qua trầm hương đi về hát khẽ lời “anh đến thăm em đêm ba
mươi...” mà chợt làm huyên náo cả tách trà thơm, lặng thầm giở từng
trang Mùa lá rụng trong vườn...
Cũng là một cái thú giữa ngày
xuân chăng!
0 Nhận xét cho: "Tóm tắt truyện "Mùa lá rụng trong vườn""