Đặng Trần Côn, người làng Nhân Mục
(thường gọi là làng Mọc), huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Thanh
Xuân, Hà Nội), sống vào nửa đầu thế kỷ XVIII thời vua Lê Dụ Tông (1705 – 1729)
và chúa Nhân Vương Trịnh Cương. Là người nổi tiếng hiếu học và tài ba, tính
tình phóng khoáng, sinh thời, ông có sáng tác một số tác phẩm nhưng chỉ đến khi Chinh phụ ngâm ra mắt độc giả thì tên tuổi của ông
mới được khẳng định trên thi đàn.
Chinh phụ ngâm đã được Đặng Trần Côn viết bằng chữ
Hán khoảng từ năm 1740 đến năm 1742, dài 478 câu theo thể trường đoản cú. Kiệt
tc này có một vị trí văn học sử vô cùng đặc biệt: cắm mốc mở đầu về cả hai
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của văn học cổ điển ở thế kỷ
XVIII, một giai đoạn văn học phát triển rất rực rỡ từng được mệnh danh là “thời đại hoàng kim”.
Ngay từ lúc chào đời, Chinh phụ ngâm đã gây ra một tiếng vang lớn trong
giới nho sĩ thời bấy giờ. Họ chú ý đến tác phẩm vì nó báo hiệu một xu hướng mới
của văn học: nội dung văn học mang tính nhân văn chủ nghĩa (đi sâu vào cuộc
sống của con người, quan tâm đến những vấn đề thuộc về hạnh phúc của con người
và đề cao con người …). Đây là điều mà bộ phận văn học trước đó ít quan tâm
đến. Vì quá yêu thích tác phẩm nên nhiều người đã tìm cách dịch nó ra chữ Nôm
và cho đến nay thì bản dịch của Phan Huy Ích vẫn được đánh giá là thành công
nhất. Vậy Phan Huy Ích là ai ?
Phan Huy Ích (1751 – 1822), có quê tổ
ở làng Thu Hoạch, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Phan Huy Cẩn, đỗ Tiến sĩ
năm 1754. Ông vốn rất thông minh. Năm 22 tuổi, đậu Hương cống trường Nghệ An.
Năm 25 tuổi (1775), đậu Hội Nguyên (Tiến sĩ). Cuộc đời làm quan lắm nỗi thăng
trầm. Ngoài dịch phẩm Chinh
phụ ngâm, hai tập thơ văn chữ Hán của ông là Dụ Am ngâm lục và Dụ
Am văn tập cũng được ít nhiều
độc giả biết đến.
Với chủ đề tố cáo chiến tranh phi nghĩa và
thể hiện niềm khao khát về một cuộc sống hòa bình, con người được yêu đương,
được sống trong hạnh phúc của tình yêu tuổi trẻ,Chinh phụ ngâm thật sự là một tác phẩm có giá trị,
thắm đượm chủ nghĩa nhân văn. Có lẽ nội dung nhân văn chủ nghĩa của tác phẩm đã
được khơi nguồn từ những tiếng nói oán trách chiến tranh phi nghĩa trong các
bài ca dao xưa, hoặc được gợi mở từ nhiều bài thơ phản chiến của văn học Trung
Quốc như: Thập ngũ tòng quân
chinh, Chiến thành Nam …, hoặc từ những bài thơ có cùng đề
tài của các nhà thơ lớn đời Đường như là: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư dị, Vương
Xương Linh, Sầm Than v.v… Vì lẽ ấy mà hầu hết độc giả đều có thể cảm nhận được
niềm xúc cảm chân thật, mạnh mẽ toát lên từ toàn bộ khúc ngâm.
Chinh phụ ngâm ra đời vào thế kỷ XVIII, khi đất nước
Đại Việt đang ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Giai cấp phong kiến đã tiến
hành nhiều cuộc chinh phạt đối với phong trào nông dân khởi nghĩa. Do đó, lúc
này, người dân phải sống trong cảnh điêu linh, thống khổ, cùng có một nỗi niềm
là oán ghét chiến tranh. Sáng tác từ bối cảnh như thế, cảm hứng của Đặng Trần
Côn không thể không bắt nguồn từ hiện thực. Phan Huy Chú, trong Lịch triều hiến chương loại chí có nói rõ:“Nhân đầu đời Cảnh Hưng,
việc binh nổi dậy, người ta đi đánh trận phải lìa nhà, Đặng Trần Côn cảm thời
thế mà làm ra”.
Là tác phẩm trữ tình, được sáng tác
bằng bút pháp chủ yếu là tượng trưng, ước lệ, Chinh
phụ ngâm, với nội dung là lời
than vãn của người thiếu phụ có chồng đi đánh giặc xa, lâu chưa về,
hiển nhiên, có nhân vật chính là người chinh phụ. Tâm trạng trông chồng khắc
khoải và sầu muộn của nàng đã góp phần tô đậm thêm tính chất nhân văn chủ nghĩa
của khúc ngâm. Phần trích dẫn và phân tích một số đoạn thơ trong tác phẩm sau
đây sẽ giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về nội dung trên.
Đoạn 1 (từ câu 1 đến câu 24):
Thủa trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm
thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng
gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất
chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm
giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
Bóng cờ tiếng
trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa
phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành
liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời.
Chí làm
trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo
Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét
roi cầu Vị ào ào gió thu …
Đất nước rơi vào cảnh loạn ly. Trong
tiếng kêu than thảng thốt của biết bao nhiêu nạn nhân khốn khổ vì chiến tranh,
chúng ta vẳng nghe có tiếng oán thán não nùng của người chinh phụ (hay cũng là
lời thông cảm tha thiết của tác giả đối với phận thuyền quyên ?):
Thủa trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?
“Nỗi này” là nỗi khổ kêu khó thấu trời cao của
những con người phải cam chịu cảnh sống xa lìa người thân vì tai họa chiến
tranh. Trong hoàn cảnh đó, theo cách đánh giá của thi nhân thì khách má hồng
phải hứng chịu “nhiều nỗi
truân chuyên” nhất, kể cả
người chinh phụ. Dù xuất thân từ tầng lớp quý tộc, vợ chồng nàng vẫn lâm vào
cảnh rẽ thúy chia quyên, bởi vận mạng của gia đình nàng luôn gắn liền với vận
mạng của giai cấp thống trị phong kiến. Hơn nữa, đối với các cuộc chinh phạt
của vua chúa, vợ chồng nàng còn thấy là cần thiết, là chính nghĩa nên đã hăng
hái góp phần vào các cuộc đánh dẹp ấy. Nhưng rồi thời gian dần trôi mãi mà
người chinh phu vẫn cứ ra đi biền biệt không về để lại cho nàng biết bao nỗi
niềm sầu khổ, nhớ thương. Vì thế, mở đầu khúc ngâm, bằng tất cả tình yêu tha
thiết dành cho chồng, người chinh phụ đã bồi hồi nhớ lại cảnh chia tay cùng
chồng trong không khí tổng động viên đầy náo động, hào hùng: tiếng trống Tràng
Thành giục giã, khói ở núi Cam Tuyền báo tin có giặc, cùng với tiếng hịch “xuất binh” vang vọng được truyền đi lúc nửa đêm
là hình ảnh vua trao gươm báu và áo nhung bào để cho quan võ thống lĩnh ba quân
kíp ra đi giữ gìn đất nước:
Trống Tràng Thành lung lay bóng
nguyệt,
Khói Cam
Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm
truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước
thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung
trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây …
Trước tình cảnh đó, vốn là con dòng
cháu giống lại có học, nên đôi vợ chồng trẻ đã sớm biết phân biệt rạch ròi giữa “phép công” và “niềm
tây”:
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
(Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt)
Do đó, dù “buổi tiễn đưa lòng bận thê noa”,
người chinh phu cũng quyết lên đường tòng quân diệt giặc để được tận trung cùng
chúa, vẹn hiếu cùng nhà. Trước tư thế ra đi đầy hăm hở của chồng, người chinh
phụ đành phải dằn nén bao nỗi sầu muộn đang dâng cuồn cuộn trong lòng cùng niềm
oán trách chiến tranh:
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
để ca
ngợi chí khí ngút trời và vẻ đẹp vô cùng oai phong lẫm liệt của chồng nàng –
người tráng sĩ đã xem thường cái chết, dốc lòng xông pha trận mạc, giết giặc,
lập công:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước
gươm đã quyết chẳng dong giặc trời.
Chí làm
trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo
Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào
ào gió thu …
Nhìn chung, hình tượng khánh chinh phu
được xây dựng ở đây thật đẹp. Đó là một trang dũng tướng biết đặt nợ nước lên
trên tình nhà, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Tiếc rằng đây chỉ là cuộc chiến
tranh phi nghĩa nên sự hy sinh đó sẽ trở thành vô ích mà thôi.
*
* *
Dấn thân vào cuộc chiến không có chính
nghĩa, số phận của người chinh phu rồi sẽ ra sao ? Qua tâm tưởng của người
chinh phụ, đoạn trích thứ hai (từ câu 65 đến câu 110) sẽ phần nào giúp độc giả
thấy rõ mọi gian nan, vất vả mà chàng phải chịu đựng nơi chiến trường cũng như
sự đọa đầy của chiến tranh đối với con người – những chiến binh giàu lòng yêu
nước:
Chàng
từ đi vào nơi gió cát,
Đêm
trăng này nghỉ mát phương nao ?
Xưa nay chiến địa dường bao
?
Nội không muôn dặm
xiết bao dãi dầu !
Hơi gió
lạnh, người rầu, mặt dạn,
Dòng
nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên, gối trống đã chồn,
Nằm vùng
cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán
xuống Bạch thành đóng lại,
Mai Hồ
vào Thanh Hải dòm qua.
Hình khe, thế núi gần xa,
Đứt thôi
lại nối, thấp đà lại cao.
Sương
đầu núi buổi chiều như gội,
Nước
lòng khe nẻo suối còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu !
Lòng quê
qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên
trướng gấm thấu hay chăng nhẽ ?
Dạng
chinh phu ai vẽ cho nên.
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao
trông thức mây lồng,
Lòng nào
là chẳng động lòng bi thương.
Từ trẩy
sang đông nam khơi nẻo,
Biết nay
chàng tiến thảo nơi đâu
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem
tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi
mạnh ơn dày từ trước,
Trải
chốn nghèo tuổi được bao nhiêu ?
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì
gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử
sĩ gió ù ù thổi,
Mặt
chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu, tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt,
nào ai gọi hồn ?
Dấu binh
lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành
nhân, qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng
Siêu tóc đã điểm sương mới về.
Tưởng
chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước
gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa,
giáo lan mặt thành
Áng công
danh trăm đường rộn rã,
Những
nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,
Thiếp
trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Nếu như ở đoạn thơ trước đó, bằng trái
tim chan chứa yêu thương, người chinh phụ đã từng mường tượng thấy hình ảnh
chồng mình thật đẹp đẽ, rực rỡ trong buổi xuất chinh:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
thì giờ
đây, khi người chinh phu đã đi khuất sau mấy ngàn dâu, vẫn với trí tưởng tượng
và một tình yêu vô bờ bến, người chinh phụ lại tiếp tục phóng tầm mắt ra tận
chiến trường để theo dõi vận mệnh, theo dõi cuộc sống của chồng nàng nơi chiến
địa. Và cảnh chiến trường vô cùng đen tối đã dần dần hiện ra trước mắt nàng:
không hề có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, cả tiếng va chạm của vũ khí cũng không.
Nó hoàn toàn khác với cảnh chiến trường trong các tác phẩm văn học thời Lý –
Trần. Tính chất đen tối của nó được tạo nên từ những hình ảnh thiên nhiên ảm
đạm, thê lương:
Sương đầu núi buổi chiều như gội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu.
………………………………………………………….
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
và từ
luồng tử khí lạnh lẽo luôn bao phủ xung quanh chiến địa:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Trong khung cảnh đen tối ấy, cuộc sống
của người chiến binh nói chung, của người chinh phu nói riêng vô cùng vất vả,
gian lao do phải thường xuyên di chuyển khắp nơi:
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Hình khe, thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Chưa chịu dừng lại nơi đó, quá thương
chồng, người chinh phụ còn để trí tưởng tượng của mình đi sâu vào chốn “đạn
lạc, tên rơi”.Rồi chạnh nhớ đến câu: “Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, nàng đã hình dung ra cái kết cục bi thảm của
người chồng thân yêu:
Chinh phu, tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn ?
Người chinh phu có thể tử trận giữa sa
trường bất cứ lúc nào. Chàng cũng có thể bị lãng quên và nếu có được may mắn
trở về thì ắt hẳn đã già như chàng Ban Siêu (tướng nhà Hán, đi đánh giặc ở Tây
Vực ròng rã ba mươi mốt năm, khi về nhà thì đã ngoài tám mươi tuổi):
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới
về.
Với suy nghĩ bi quan đó, hình ảnh
người chinh phu lúc này hoàn toàn đối lập với dáng vẻ của chàng trong buổi xuất
chinh: nét oai phong lẫm liệt hôm nào đã biến mất chỉ còn lại một chiến
binh đã quá đỗi mệt mỏi, phờ phạc, chán nản
và ỉu sìu vì phải đương đầu với muôn vàn cơ cực, hiểm nguy nơi chiến trận:
Hơi gió lạnh, người rầu, mặt dạn
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.
Ôm yên, gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Quả thật chiến tranh mà nhất là chiến
tranh phi nghĩa đã đày đọa khách chinh phu đến tột cùng. Họ hầu như đã đánh mất
tất cả khi dấn thân vào cuộc chiến tranh này: từ vợ đẹp, con ngoan, hạnh phúc
gia đình sum vầy, êm ấm, thậm chí là cả tính mệnh của mình … Phải chăng, đây chính
là thông điệp mà Đặng Trần Côn muốn gửi đến độc giả và cũng là biện pháp thiết
thực nhất mà nhà thơ dùng để phản kháng chiến tranh ?
*
* *
Nhưng chiến tranh không chỉ khiến
người chinh phu phải chịu nhiều khốn đốn mà nó còn gieo rắc lắm nỗi khổ sầu cho
kẻ ở hậu phương.
Từ những cảm nghĩ của người chinh phu
ở đoạn kết thúc tác phẩm, chúng ta có thể thấy rằng nàng luôn hy vọng là chiến
tranh phong kiến sẽ đem lại cho gia đình nàng và cho bản thân nàng hạnh phúc,
danh vọng và cả địa vị:
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ
Chữ đông hưu bia để nghìn đông
Ơn trên tử ấm, thê phong.
Phần
vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thế nhưng, những hình ảnh rực rỡ của
buổi xuất quân chỉ thoáng qua như một ảo ảnh và ngày về chói lọi huân công ấy
cũng chỉ mới là ước nguyện, là tưởng tượng và có lẽ cũng chỉ là ảo tưởng mà
thôi bởi vì trong suốt tác phẩm không có một chi tiết nào báo hiệu người chinh
phu sẽ được trở về trong chiến thắng huy hoàng. Điều mà người chinh phụ cảm
thấy sâu xa nhất, mãnh liệt nhất là thực tế phũ phàng, đau khổ trước mắt và một
viễn cảnh tàn nhẫn vì lứa đôi chia biệt, bởi chiến tranh vẫn cứ kéo dài. Có thể
nói là Chinh phụ ngâm đã
tập trung nói nhiều nhất đến hình ảnh, đến tâm trạng đau khổ của người chinh
phụ trong suốt thời gian chia cách não nùng.
Chiến tranh phong kiến đã khiến cho
người chinh phụ phải một thân nuôi già, dạy trẻ, nhưng điều đau khổ nhất đối
với nàng vẫn là nỗi nhớ nhung, sầu muộn vì đợi chờ, là lòng khao khát hạnh phúc
lứa đôi trong những tháng ngày xa cách. Tất cả đều được thể hiện đậm nét ở đoạn
trích sau đây (từ câu 209 đến câu 228):
Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn
vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dầu chẳng tới miền,
Nhớ nàng
thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời
thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ
chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn, người thiết tha lòng,
Cành cây sương
đượm, tiếng trùng mưa phun
Sương
như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết
nhường cưa, xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sâu
tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài
tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng
tiêu, gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa
theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi
nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt
lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước
hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu.
Ngay từ đầu đoạn thơ, nỗi nhớ
nhung của người chinh phụ đã được thể hiện rất rõ. Không thể bày tỏ cùng ai tâm
tình sâu kín, nàng đã gửi niềm thương nhớ chồng theo ngọn gió đông (gió mùa
xuân) như muốn nhờ gió nói hộ với chồng nơi miền biên ải tấc lòng nhung nhớ của
nàng. Những hình ảnh: gió
đông, non Yên, trời thăm thẳm …
có tính chất ước lệ, càng gợi ra sự xa cách muôn trùng giữa chinh phụ và chinh
phu, vì thế, nỗi nhớ càng tăng. Và nỗi nhớ đó càng thêm dằng dặc, canh cánh bên
lòng khi giữa hai người giờ đây không chỉ có khoảng cách thời gian (đằng
đẵng) mà còn có cả khoảng cách không gian (đường lên bằng trời). Hoà
vào âm điệu thơ triền miên, da diết của đoạn trích là những điệp ngữ liên hoàn: non Yên – non Yên, bằng trời – trời
thăm thẳm ..., hợp cùng các
từ láy: đằng đẵng, đau đáu … có giá trị cộng hưởng càng cho thấy
nỗi nhớ của chinh phụ không chỉ có độ dài mà còn có cả chiều sâu, đã nhói lên
thành nỗi đau. Trước nỗi đau đó, “cảnh
buồn” càng khiến cho lòng
người thêm “thiết tha” và nỗi nhớ chồng mỗi lúc lại càng da
diết.
Tâm trạng sầu muộn của người chinh phụ
nặng trĩu nên cảnh thiên nhiên cũng nhuốm đậm nét lạnh lẽo, thê lương, qua cái
nhìn sầu thảm của nhân vật:
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết nhường cưa, xẻ héo cành ngô
Hàng loạt biện pháp tu từ được sử dụng
trong hai câu thơ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, đối lập … đã góp phần khắc họa
đậm nét sức tàn phá dữ dội của sương,
tuyết đối với gốc liễu, cành ngo, hay cũng là
đối với hình vóc héo tàn của người chinh phụ. Thêm vào đó, những âm thanh của
những tiếng sâu tường,
tiếng chuông chùa, tiếng dế … cũng góp phần gợi ra vẻ hoang vắng
của cảnh vật khiến cho người chinh phụ như càng chìm sâu vào nỗi vò võ cô đơn.
Cuối cùng, đoạn thơ đã kết thúc với
cảnh thiên nhiên đẹp não nùng như xoáy sâu thêm vào mối thương tâm của người cô
phụ:
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa, theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa
giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt
lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu.
Hai từ “hoa”, “nguyệt” đã được lặp lại theo kiểu song đôi
với nhau thật tài hoa, tinh tế xuyên suốt cả năm câu thơ vừa cho thấy sự gắn
bó, hòa quyện của các sự vật trong thiên nhiên, vừa góp phần tạo nên tính chất
hữu tình cho bức tranh phong cảnh. Hơn nữa, các động từ: “theo”, “dõi”, “lồng” cũng được sử dụng khéo léo, càng làm
tăng thêm sự quấn quýt giữa “hoa” và “nguyệt”,
như muốn giúp cho “hoa”, “nguyệt” được cùng tỏa sắc khoe hương. Là những
vật vô tri, vô giác, “hoa”
“nguyệt” còn có tình với nhau
đến thế, huống chi chinh phu lẫn chinh phụ, hai con người rất đỗi yêu nhau, ai
nỡ rẽ chia cho kẻ Tấn, người Tần ? Từ đoạn thơ, chúng ta thấy toát lên nỗi khát
khao được hưởng hạnh phúc lứa đôi âm thầm mà mãnh liệt của người thiếu phụ cô
đơn. Đó cũng chính là khát vọng muôn thuở mang đậm tính nhân bản của con
người.
*
* *
Như vậy, có thể nói Chinh phụ ngâm là một trong những tác phẩm tiến bộ
của văn học cổ điển đã quan tâm đến vận mệnh của con người. Những khát
vọng hạnh phúc, khát vọng ái ân rất trần thế của con người đã được tác giả đề
cao. Người chinh phụ trong tác phẩm này vì quá yêu chồng mà oán ghét chiến
tranh và thái độ oán ghét ấy càng tăng lên khi lòng khao khát hạnh phúc, cùng ý
thức về quyền sống cá nhân ở nàng trỗi dậy mạnh mẽ. Thật ra, tiếng nói oán ghét
chiến tranh đã có mặt trong văn học từ lâu. Nhưng phải đến thế kỷ này thì tiếng
nói đó mới trở nên sâu sắc, quyết liệt, vì đây là tiếng nói xuất phát từ sự
thức tỉnh về quyền sống hạnh phúc của cá nhân. Ghi nhận được điều này là một
đóng góp độc đáo của thi sĩ Đặng Trần Côn vào kho tàng văn học Việt Nam trong quá
khứ khi viết về đề tài chinh phu, chinh phụ. Và đây cũng chính là điều làm cho
nội dung tác phẩm mang đậm tính nhân văn.
Nói tóm lại, Chinh phụ ngâm tác phẩm và dịch phẩm đều được đánh
giá là những sáng tác nổi tiếng, xứng đáng là áng văn mở đầu, cắm mốc về cả hai
phương diện nội dung lẫn nghệ thuật của giai đoạn văn học cổ điển này. Tuy có
những hạn chế nhất định, nhưng Chinh
phụ ngâm vẫn mãi là tiếng nói
khao khát cuộc sống hoà bình của dân tộc ta trong một thời đại lịch sử. Tiếng
nói ấy càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì đó là tiếng nói của người phụ nữ –
nạn nhân đau khổ nhất của chế độ phong kiến. Tác phẩm không chỉ đấu tranh chống lại sự áp
bức của giai cấp thống trị, mà
còn góp phần đấu tranh cho quyền sống, quyền hạnh phúc của con người, . Chính
vì vậy, cho đến nay, Chinh phụ
ngâm vẫn giữ nguyên giá trị
đối với chúng ta trong tiếng nói hãy
giành cho con người quyền được hưởng hạnh phúc.
NGUYỄN THỊ THANH HẰNG
Tổ Ngữ Văn
0 Nhận xét cho: "CHINH PHỤ NGÂM, MỘT TÁC PHẨM GIÀU TÍNH NHÂN VĂN"