PHÂN TÍCH – BÌNH
GIẢNG BÀI THƠ TỪ ẤY
Hướng dẫn
làm bài
Mở bài:
Mở đầu bài thơ “Một nhành xuân” (tặng Đảng thân
yêu tròn 50 tuổi), Tố Hữu đã viết:
“Năm 20 của
thế kỉ 20
Tôi đã sinh
ra. Nhưng chưa được làm người
Nước đã
mất. Cha đã làm nô lệ.
… Từ vô
vọng, mênh mông đêm tối
Người đã
đến. Chói chang nắng dội
Trong lòng
tôi. Ôi Đảng thân yêu
Sống lại
rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu!”
Niềm vui sướng, niềm hạnh phúc được tái sinh
và niềm say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng
Đảng đó, ngay từ tuổi mười tám, đôi mươi, đã được ông viết nên một
bài thơ rất xúc động với những hình ảnh táo bạo, chói sáng gợi
cảm và một nhạc điệu hăm hở lôi cuốn tràn đầy cảm hứng lãng mạn
bay bổng: “Từ ấy”.
Thân bài
I. Vài nét
về tác giả và bài thơ
1. Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn
Kim Thành, quê ở làng Phù Lại, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế. Thủa nhỏ, ông học trường Quốc học Huế. Năm 1938, Tố Hữu được
kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Từ đó, sự nghiệp thơ ca của ông gắn
liền với sự nghiệp cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều
thắng lợi vẻ vang của dân tộc Việt nam. Năm 1996, ông được Nhà nước
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. Ngày được đứng vào hàng ngũ những người
phấn đấu vì một lí tưởng cao đẹp là bước ngoặt trong cuộc đời Tố
Hữu. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ, với những cảm xúc, suy tư sâu sắc,
Tố Hữu đã viết bài thơ này. Bài thơ nằm trong phần “Máu lửa” của
tập “Từ ấy” (Tập thơ gồm ba phần: “Máu lửa”, “Xiềng xích” và “Giải
phóng”).
II. Phân tích
- Bình giảng bài thơ
1. “Từ ấy”
là một tứ thơ đặc sắc rất giàu ý nghĩa
“Tứ thơ là một ý lớn lao bao quát toàn bài
thơ, làm điểm tựa cho sự vận động của nội dung bài thơ”. Ở bài thơ
này, tứ thơ “Từ ấy” - cái thời
điểm có ý nghĩa bước ngoặt trọng đại thiêng liêng trong cuộc đời
cách mạng, đời thơ của tác giả.
Đó là thời điểm Tố Hữu bắt gặp lí tưởng
cộng sản.
2. Khổ 1:
Diễn tả niềm vui sướng, niềm hạnh phúc tột đỉnh và sự say mê khi
gặp lí tưởng Đảng
- Tác giả khẳng định lí tưởng cộng sản như
một nguồn sáng mới làm bừng tỉnh, bừng sáng tâm hồn và trí tuệ
nhà thơ (chú ý phân tích hình ảnh “bừng nắng hạ”: ánh sáng của
ngày hè, rất nồng nàn rạng rỡ. Từ “bừng”
chỉ ánh ánh sáng phát ra đột ngột).
- Hình ảnh “mặt
trời chân lí chói qua tim” là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ,
táo bạo giàu ý nghĩa thẩm mĩ mà rất chính xác, gợi cảm. Mặt trời
là nguồn sáng rực rỡ, chói chang và duy nhất đưa lại sự sống cho
muôn loài. Hình ảnh “mặt trời chân lí” đi liền với nhóm từ “chói qua tim” đã diễn tả được niềm
vui rất đỗi thiêng liêng, có cái gì đó gần như “choáng váng” (chữ
dùng của Hoài Thanh) và sức xuyên thấu kì diệu, mạnh mẽ của lí
tưởng Đảng đối với tình cảm, nhận thức của thi sĩ.
- Hai câu sau: Với bút pháp trữ tình, lãng mạn
cùng với hình ảnh so sánh có tính chất khẳng định (Tố Hữu dùng từ
“là” chứ không dùng từ “như”). Tác giả đã bày tỏ được niềm hạnh
phúc vô biên, sức sống kì diệu của tâm hồn mình trong buổi đầu đến
với lí tưởng Đảng. Hắn là trước đó, tâm hồn thi sĩ là một khu vườn
mùa đông cành khô, lá úa thì giờ đây được gặp lại lí tưởng cách
mạng, bỗng chốc tâm hồn đó trở thành một khu vườn mùa hạ xanh tươi,
ngập tràn ánh nắng mặt trời nồng nàn, rộn rã tiếng chim ca và ngạt
ngào hương sắc. Vẻ đẹp của khu vườn tâm hồn ấy, đối với Tố Hữu,
nhà thơ cộng sản, còn là vẻ đẹp của sức sống mới của một hồn thơ
mới…
3. Khổ II:
Biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới
- Giác ngộ lí tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ
sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng.
Nhà thơ chủ động, tự giác hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi
người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện
sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết,
sống chan hòa với “mọi người”, với
“trăm nơi”, với quần chúng đông
đảo khắp mọi miền đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải
rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi
cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao.
- Hai câu sau: “Để
hồn tôi với bao hồn khổ… mạnh khối đời” khẳng định tình cảm hữu
ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẽ, để cá nhân hòa vào
tập thể, tạo nên một sức mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này,
khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng. Tố Hữu cũng đã
viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là
vô số!”.
4. Khổ III
- Tố Hữu khẳng định sự chuyển biến tình cảm
của mình. Tác giả tự nhận mình
là một thành viên thân thiết ruột thịt trong đại gia đình quần
chúng bị áp bức, đau khổ trong xã hội cũ. Các điệp từ “là” cùng với các từ “con”, “em”,
“anh” đã khẳng định điều đó.
- Số từ ước lệ “vạn” chỉ số lượng hết sức
đông đảo. Chính vì những “người anh” phải sống “kiếp phôi pha”, những
người “em”… “cù bất cù bơ” ấy mà người thanh niên cộng sản Tố Hữu
say mê hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác
chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. Không phải ngẫu nhiên mà từ đây, Tố Hữu
đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với những “em bé mồ côi”, “em bé bán dạo”, “chị vú em”, “cô gái giang
hồ”, “lão đầy tớ”… những con người mà tác giả cho đó là “những người tù nhân khốn nạn của bần
cùng”.
Kết luận
- “Từ ấy”
là một bài thơ sâu sắc về nội dung, độc đáo về nghệ thuật.
- Ngòi bút
tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạo, chói sáng, giàu khát vọng
lãng mạn bay bổng, say người.
- Câu thơ mạnh, cảm xúc thơ tràn đầy. Nhạc thơ
biến đổi sinh động, hăm hở, dồn dập say sưa, lôi cuốn.
- “Từ ấy”
còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ Tố Hữu.
Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng,
ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.
0 Nhận xét cho: "PHÂN TÍCH – BÌNH GIẢNG BÀI THƠ TỪ ẤY"